Trang

Chủ Nhật, 25 tháng 3, 2012


Lịch Việt Nam và Trung quốc

(Sưu tầm)

Người Việt nam dùng âm lịch để tính lễ tiết và chọn ngày cho các công việc quan trọng như cưới hỏi, xây nhà, mở cửa tiệm làm ăn ...   Âm lịch này giống như âm lịch của Trung quốc nghĩa là dựa trên chu kỳ của mặt trăng và phối hợp với sự chuyển động của trái đất quanh mặt trời.  Mỗi năm có 12 tháng, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu, 29 ngày.  Cứ 19 năm thì nhuận 7 lần, mỗi lần nhuận một tháng.  Tháng đầu năm là tháng giêng và tháng cuối năm là tháng chạp không bao giờ được lấy làm tháng nhuận.  Ngày đầu năm, ngày  mùng một Tết, là ngày đầu tuần trăng thứ nhì sau ngày tiết Ðông chí (Winter solstice, thường xem như là ngày mà đêm dài nhất trong năm).  Tùy theo tuần trăng ở ngày Ðông chí mà ngày đầu năm sẽ đến trong khoảng 30 đến 59 ngày sau ngày đó.  Do đó ngày mùng một Tết chỉ có thể nằm trong khoảng 20 tháng 1 đến 21 tháng 2 dương lịch.  Tháng âm lịch thường đi sau tháng dương lịch một hay hai thứ, như tháng ba âm lịch ứng với tháng tư hoặc tháng năm dương lịch.
            Năm âm lịch không tính theo số mà dùng tên ghép gồm hai chữ.   Chữ đầu là một trong 10 thiên can (Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm và Quý).  Chữ thứ nhì là một trong 12 địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão hay Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi).  Mười hai địa chi là tên 12 con vật.   Âm lịch Việt nam khác âm lịch Trung quốc ở chỗ năm Sửu thì theo lịch Việt nam là năm con trâu, còn Trung quốc là con bò, còn năm Mão hay Mẹo ở Việt nam là năm con mèo, thì trong lịch Trung quốc lại là năm con thỏ.  Vì bội số chung của 10 (thiên can) và 12 (địa chi) là 60, nên cứ 60 năm, tên các năm lại được lập đúng trở lại.  Và cũng vì thế mà mỗi can chỉ đi chung với sáu năm trong 12 địa chi, hay mỗi năm theo địa chi chỉ có thể đi chung với 5 can mà thôi.  Thí dụ như can Giáp chỉ đi chung với các năm Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân và Tuất, còn can Ất chỉ đi chung với các năm Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu và Hợi.
Trần Ngọc Thùy Trang (cựu chủ tịch UVSA) có nhận xét là các năm bắt đầu bằng can Canh có số đơn vị là 0, Tân có số đơn vị là 1 ... theo số năm dương lịch, nhưng không rõ sự tương ứng.   Thật ra đó là sự tương ứng một gióng một (correspondence one to one): vì hệ thống số đang dùng theo thập phân, từ 0 đến 9, nên số hàng đơn vị mỗi năm ứng với mười thiên can, không xê dịch, không thay đổi được.   Năm có can Canh luôn luôn ứng với năm dương lịch có số cuối là 0 (như Canh Thìn là 1940, 2000; Canh Ngọ là 1990, Canh Thân là 1980 ...), Tân ứng với số cuối là 1 (Tân Tỵ là 1941, 2001; Tân Mùi là 1991, Tân Dậu là 1981 ...), Nhâm ứng với số cuối là 2 (Nhâm Ngọ là 1942, 2002, Nhâm Thân là 1992, Nhâm Tuất là 1982 ...),  Quý, với số cuối là 3 (Quý Mùi là 1943, 2003; Quý Hợi là 1983, Quý Dậu là 1993 ...), Giáp ứng với số cuối là 4 (Giáp Thân là 1944, 2004; Giáp Tuất là 1994, Giáp Dần là 1974 ...)  vân vân.   Cứ mười hai năm làm một giáp (great year),  60 năm làm một vận niên lục giáp (cycle) và 3600 năm làm một kỷ nguyên (epoch)



4
5
6
7
8
9
0
1
2
3

Giáp
Ất
Bính
Ðinh
Mậu
Kỷ
Canh
Tân
Nhâm
Quý
1984

1996





1972

Sửu

1985

1997





1973
Dần
1974

1986

1998





Mão

1975

1987

1999




Thìn
1964

1976

1988

2000



Tỵ

1965

1977

1989

2001


Ngọ
1954

1966

1978

1990

2002

Mùi

1955

1967

1979

1991

2003
Thân
2004

1956

1968

1980

1992

Dậu

2005



1969

1981

1993
Tuất
1994

2006

1958

1970

1982

Hợi

1995

2007



1971

1983
  Số tương ứng với 10 thiên can.

Mỗi năm âm lịch lại chia ra làm 24 tiết.

Tiết (âm lịch)
Dương lịch (khoảng)
Số ngày giữa hai tiết   
Lập xuân            
4 tháng 2  
15
thủy
19 tháng 2 
15
Kinh trập 
6 tháng 3
(năm nhuận, 16 ngày) 15
Xuân phân 
21 tháng 3
15   
Thanh minh
5 tháng 4
15  
Cốc vũ              
20 tháng 4
15
Lập hạ       
6 tháng 5       
16 
Tiểu mãn
21 tháng 5
15 
Mang chủng  
6 tháng 6
16  
Hạ chí       
21 tháng 6
15  
Tiểu thử   
7 tháng 7
16 
Ðại thử    
23 tháng 7
16 
Lập thu  
8 tháng 8
16
Xử thử
23 tháng 8
15
Bạch lộ     
8 tháng 9
16 
Thu phân        
23 tháng 9
15  
Hàn lộ            
8 tháng 10
15 
Sương giáng    
23 tháng 10 
15
Lập đông  
7 tháng 11 
15
Tiểu tuyết   
22 tháng 11 
15 
Ðại tuyết  
6 tháng 12
14 
Ðông chí             
22 tháng 12
16     
Tiểu hàn   
5 tháng1 
14  
Ðại hàn       
20 tháng 1   
15
Tổng cộng        

 365

Cơ sở tính toán lịch Việt Nam

Quy tắc tính Lịch âm Dương Á Đông:


      Quy tắc tính Lịch âm Dương Việt Nam và Trung Quốc hiện nay giống nhau và chỉ khác ở múi giờ tham chiếu. Tuy nhiên sự khác nhau về múi giờ có thể dẫn đến sự khác nhau về điểm sóc tháng nhuận, ngày tết hay ngày chuyển tiết giữa lịch hai nước sau này chúng ta sẽ thấy.Các quy tắc tính lịch phát biểu ở đây hoàn toàn thống nhất với các quy tắc do đài thiên văn Tử Kim Sơn công bố (liu và Ste, 1984). Mặt khác, đây cũng là cách ghi tiếp cận của cố GS.Hoàng Xuân Hãn đề nghị tức là sử dụng các số liệu, phương pháp, mô hình tính hiện đại cuả Phương Tây để tính chính xác các điểm Sóc, Khí, rồi theo phép “Không trung khí là nhuận” của trung lịch để xác định tháng nhuận. Theo ông: “ Đó là hợp thuật hiện đại với phép lịch xưa để có thể duy trì một lịch pháp hợp thiên thời, địa lợi và nhân trí nhất”!


      Dựa vào quy tắc được phát biểu sau đây như những “tiên đề” và áp dụng các phương pháp , mô hình thiên văn hiện đại chúng ta có thể tính lịch Việt Nam (và Trung Quốc) một cách chính xác, hợp với phép lịch xưa, có một nghiệm duy nhất mà không cần thêm bất cứ một điều kiện nào khác- như sẽ giải thích và minh chứng ở phần dưới.


Quy tắc tính:

      a.
Ngày đầu tháng là ngày Sóc (Không trăng).
      b. Năm bình thường có 12 tháng, năm nhuận có 13 tháng.
      c. Ngày đông chí luôn rơi vào tháng 11.
      d. Trong năm nhuận tháng không có Trung khí là tháng nhuận, tháng này đánh số trùng với tháng trước nó (thêm chữ nhuận). Nếu trong năm nhuận có hai tháng không có Trung khí thì tháng đầu tiên sau Đông chí được coi là tháng nhuận.
      e. Tính toán dựa trên kinh tuyến pháp định (ở Việt Nam là 105 độ Đông và ở Trung Quốc là 120 độ Đông).

Giải thích về quy tắc

      Sau đây chúng tôi giải thích về các quy tắc trên và minh hoạ bằng một số ví dụ, điều này là cần thiết vì có nhiều người hiểu không đúng về cách tính lịch, nhất là việc xác định tháng nhuận. Chẳng hạn theo 2 tác giả Nachum Dershowitz và Edward M.Reingold thì nhiều người không hiểu biết về Lịch âm Dương Á đông đã sai lầm khi cho rằng năm nhuận được tính dựa theo chu kỳ Meton 19 năm, hoặc tuyên bố là không có tháng nhuận sau các tháng 11, 12 hay các tháng 1. Điều này là không đúng ít nhất kể từ năm 1645 sau c.n và trong ví dụ dưới đây ta sẽ thấy là năm 2033 có tháng 11 nhuận.


      (Theo quan điểm tính toán thì Lịch âm Dương Á Đông đã trải qua ba cải cách quan trọng: vào năm 104 trước c.n (đời Hán) quy tắc tháng nhuận là tháng Âm không chứa trung khí bắt đầu được áp dụng và điểm Sóc cũng như điểm khí (Tiết khí và trung khí) được tính trung bình, năm 619 sau c.n (đời Đường) các nhà làm lịch bắt đầu tính được Sóc thực và tới năm 1645 sau c.n ( đời Thanh) thì bắt đầu tính cả các điểm khí thực-Giá trị trung bình hay giá trị thực ở đây ám chỉ việc người xưa lức đầu coi chuyển động quỹ đạo của trái đất hay mặt trăng là chuyển động đều sau đó mới tính chuyển động thực tốc độ thay đổi.


Ngày mồng 1 Âm lịch:


      Ngày được bắt đầu từ nửa đêm tới nửa đêm tiếp theo (từ 0 giờ đến 24 giờ). Dù điểm Sóc rơi vào bất cứ giờ nào trong ngày thì cả ngày đó (kể từ 0 giờ) là ngày Sóc, tức Ngày mồng 1 Âm. Với điểm Trung khí cũng vậy, dù điểm trung khí xẩy ra trước thời điểm Sóc nhưng ở cùng ngày thì cũng coi như nằm trong tháng Âm tính từ 0 giờ ngày Sóc hôm đó. Chẳng hạn Điểm Đông chí rơi vào 0 giờ 23’và điểm Sóc rơi vào 19 giờ 46’ (theo giờ Bắc Kinh) ngày 22 tháng 12 năm 1984 cho nên có thể coi tháng Âm bắt đầu từ 0 giờ ngày 22 tháng 12 này chứa điểm Đông chí trên. trong tính toán cụ thể điều này có nghĩa là chúng ta làm tròn đến số nguyên ngày Julius.


Tháng Âm lịch:


      Khoảng thời gian giữa hai điểm Sóc kế tiếp nhau chính là Tháng giao hội, trong Lịch âm Dương Á Đông các Tháng giao hội ( với độ dài trung bình 29.53 ngày) được xấp xỉ bằng chuỗi tháng 29 và 30 ngày và các tháng này gọi là tháng Âm. Tháng Âm 29 ngày gọi là tháng thiếu Tháng Âm 30 ngày gọi là tháng đủ, độ dài tháng Âm chính bằng số ngày giữa hai ngày Sóc kế tiếp vào ngày 30 tháng 5, do vậy tháng 4 âm chỉ có 29 ngày và là tháng thiếu. Nếu biết ngày Julius tương ứng với các ngày Sóc ta chỉ việc trừ đi hai ngày Julius sẽ biết độ dài tháng, thí dụ cũng ở bảng 5. Ngày Julius của30 tháng 5 là 2445851 và ngày Julius của ngày Sóc kế tiếp (ngày 29 tháng 6) là 2445881 nên tháng 5 âm có 2445881-244581= 30 ngày là tháng đủ.


Năm Âm lịch


      Do độ dài 12 tháng Âm trung bình bằng 354.3671 ngày, ngắn hơn khoảng 11 ngày so với năm Xuân phân (trung bình =365.2422 ngày) nên để cho phù hợp với thời tiết cứ sau vài ba năm người ta lại chèn thêm tháng nhuận vào theo quy tắc d. ở trên. Như vậy năm Âm lịch bắt đầu từ tết Nguyên đán và kết thúc vào ngày trước tết Nguyên Đán kế tiếp có 12 hoặc 13 tháng Âm. Trong năm thường ( 12 tháng Âm) có 353, 354 hoặc 355 ngày,còn năm nhuận có 383, 384, 385 ngày. Trong Lịch âm Dương á đông năm Xuân phân được đánh dấu từ điểm Đông chí này đến điểm Đông chí tiếp theo chứa 24 khí và lịch 24 khí này tục gọi là lịch nhà nông, năm Âm lịch không phải là lịch nhà nông vì không thích hợp cho dự báo thời tiết mặc dù nhiều người vẫn gán nhầm tên này cho nó.


Xác định tháng nhuận:


      Độ dài tháng Âm biến đổi trong khoảng 29.27 ngày đến 29.84 ngày. Giữa hai điểm Đông chí liên tiếp nhau chỉ có thể có 12 hay 13 điẻm Sóc, không thể ít hơn 12 và nhiều hơn 13!Nếu giả dụ chỉcó 11điểm Sóc, lúc này giữa hai Đông chí nhiều nhất có: 12 tháng Âm x 29.84 ngày<358 ngày, còn giả dụ có14 điểm Sóc thì giữa hai Đông chí ít nhất có: 13 tháng x 29.27 ngày >380 ngày, điều này là không thể được vì các độ dài trên nhỏ hơn hoặc lớn hơn khoảng cách giữa hai Đông chí! Tương tự như vậy, giữa các điểm Đông chí của hai năm liên tiếp như của năm N-2 và năm N hay của năm N-1 và N+1 chỉ có thể chứa 24 hoặc 25 tháng Âm nên nếu giữa hai Đông chí (thí dụ của năm N-2 và năm N ) có tháng nhuận (13 điẻm Sóc) thì giữa hai Đông chí của năm liền kề như của năm N-2 và năm N-1 hay của năm N và năm N +1 sẽ chỉ có 12 điểm Sóc và không có tháng nhuận.


      Nếu giữa hai Đông chí có 13 điểm Sóc thì dứt khoát sẽ tồn tại 2 điểm Sóc kế tiếp nhau không chứa một trung khí nàoví một năm Xuân phân chỉ có 12 Trung khí (nguyên lý hộp Dirchlet).Để làm rõ thêm chúng ta hình dung các trung khí giữa hai Đông chí tạo thành các vách ngăn của 12 hộp, 13 điểm Sóc như 13 hạt thóc bỏ vào 12 hộp thì ít nhất tồn tại một hộp chứa nhiều hơn 2 hạt thóc và giữa 2 hạt thóc này (2 điểm Sóc) không có vách ngăn Trung khí nào.(Khoảng thời gian giữa hai Trung khí thay đổi từ 29.44 ngày đến 31.44 ngày nên hoàn toàn có thể xấy ra trường hợp một tháng Âm chứa hai Trung khí ). Tháng đầu tiên sau Đông chí không có Trung khí như thế gọi là tháng nhuận, điều này đúng cho một năm N bất kỳ.


Tóm tắt các bước tính tháng nhuận:

  • Xác định các điểm Đông chí của năm N-1 và năm N (ký hiệu là Đ-1 và Đ)
  • Xác định các điểm Sóc giữa hai điểm Đông chí trên ký hiệu là S(1), (2)…đến S(12)hoặc S (13), nếu có 13 điểm Sóc thì giữaXác định các điểm có tháng nhuận.
  • Xác định các điểm Trung khí giữa Đ-1 và Đ, không kể Đ-1 và Đ thì luôn có 11 Trung khí tất cả.
Nếu có tháng nhuận thì tháng [S(k), S(k+1K] đầu tiên sau điểm Đ-1 không chứa Trung khí là tháng nhuận.
  • Các tháng Âm được đánh số sao cho hai tháng chứa các điểm Đông chí Đ-1 và Đlà các tháng mang số 11.

(Khi nói năm N có tháng nhuận ta cần hiểu câu này chỉ liên quan đến khoảng thời gian từ Đông chí năm N-1 đến Đông chí năm N mà không phải tính từ 1 tháng 1 đến 31 tháng 12 năm N vì Điểm Đông chí thường rơi vào khoảng 21 (hay 22) tháng 12 hàng năm.


Thí dụ1:
Tại sao năm 1968 Việt Nam ăn tết Nguyên Đán trước Trung Quốc một ngày?

      Việc miền Bắc bắt đầu chuyển sang dùng lịch Việt Nam chính xác không phải bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 1968 mà sớm hơn 1 ngày, từ ngày 31 tháng 12 năm 1967 tương ứng với ngày mồng 1 tháng Chạp cả ở lịch Việt Nam và lịch Trung Quốc nhưng điểm Sóc tiếp theo xẩy ra lúc 23 giờ 29’ (giờ Việt Nam) ngày 29 tháng 1 năm 1968 (nên tháng chạp lịch Việt Nam chỉ có 29 ngày), lúc này theo giờ Bắc kinh đã là 0g 29’ ngày 30 tháng 1 ( vì vậy tháng chạp ở Trung Quốc có 30 ngày), cho nên để chuyển sang đung lịch Việt Nam từ 1968 thì ngày 31 tháng 12 năm 1967 phải ghi là mồng một tháng chạp thiếu thay vì là tháng chạp đủ như cũ. Cũng vì vậy tết Nguyên Đán năm Mậu Thân 1968 theo lịch Việt Nam là ngày 29 tháng 1, còn theo lịch Trung Quốc là ngày 30 tháng 1!



Thí dụ 2:
Tại sao lịch Trung Quốc có tháng 10 nhuận vào năm 1984 trong khi lịch Viẹt Nam có 2 tháng nhuận vào năm 1985 và tết Nguyên đán ở hai nước lại lệch nhau 1 tháng?


      Có hai điểm Trung khí khác nhau là Đông chí năm 1984 và Xuân phân năm 1985. Điẻm Đông chí năm 1984 xẩy ra lức 23 giờ 23’ gìờ Việt Nam ngày 21 tháng 12 tức 0 giờ 23’ giờ Trung Quốc ngày 22 –2 12 và điểm Xuân phân rơi vào 23 giờ 14’ giờ Việt Nam ngày 20 tháng 3 năm 1985 tức 0 giờ 14’ngày 21 tháng 3 theo giờ Trung Quốc. Theo giờ Việt Nam ta thấy là giữa Đông chí năm 1983 và năm 1984 (từ ngày 22/12/1983 đến ngày 22/12/1984) chỉ có 12 điểm Sóc nên khoảng thời gian này lịch Việt Nam không có tháng nhuận.


      Ngược lại theo giờ Trung Quốc thì từ ngày 22/12/1983 đến ngày 22/12/1984 (khoảng cách giữa hai Đông chí dài thêm một ngày) có tất cả 13 điểm Sóc (điểm Sóc cuối cùng rơi vào đúng vào ngày Đông chí 22/12) và tháng Âm từ 23/11 đến 22/12 không chứa Trung khí nào nên là tháng nhuận. Mặt khác theo giờ Việt Nam từ Đông chí ngày 21/12/1984 đến Đông chí ngày 22/12/1985 cso 13 điểm Sóc và tháng Âm bắt đầu từ ngày 21/3đến ngày 19/4/1985 không chứa Trung khí nào nên tháng Âm này chính là tháng 2 nhuận (nhưng theo giờ Trung Quốc thì tháng này lại chứa một Trung khí là điểm Xuân phân ).


      Do sự khác nhau về tháng nhuận nên ngày mồng một Tết Ất Sửu ở Việt Nam rơi vào 21 tháng 1 (1985) còn ở Trung Quốc là ngày 20/2/1985. Như vậy trong hai năm 1984,1985 lịch Việt Nam và Trung Quốc khác nhau từ ngày 23/11/1984 đến ngày 19/4/1985 và giống nhau ở các khoảng thời gian còn lại-về các điểm khí có 3 tiết không trùng nhau, ngoài tiết Đông chí và Xuân phân kể còn tiết Bạch lộ (1985) cũng khác biệt nhau một ngày giữa hai lịch!






Lịch & cách xác định Năm nhuận

Lịch, âm lịch, dương lịch, âm - dương lịch là gì? Như thế nào là năm nhuận, cách xác định năm nhuận âm lịch, dương lịch như thế nào? Tại sao tháng 2 dương lịch lại có 28 ngày... Đó là những câu hỏi sẽ phần nào được làm sáng tỏ trong bài viết sau đây:

Lịch là gì? -> Lịch là hệ thống đếm những khoảng thời gian dài (năm). Cho đến nay, người ta xây dựng 3 loại lịch: âm lịch, dương lịch, âm - dương lịch.
1. Âm lịch:
Khoảng 3500 năm tr.CN, người Xume, cư dân cổ đại vũng Lưỡng Hà đã đặt ra âm lịch. Thông qua quan sát mảnh trăng non theo các chu kỳ đều đặn, người Xume đã tính được độ dài của một tháng là 29,5 ngày. Một năm có 12 tháng, các tháng lẻ: 1, 3, 5..., 11 có 30 ngày, các tháng chẵn có 29 ngày.
Năm âm lịch có: 29,5 ngày/tháng x 12 tháng = 354 ngày.
Như vậy, cơ sở để xác định năm âm lịch là vận động của Mặt Trăng xung quanh Trái Đất, nên không phản ánh đúng chu kỳ của thời tiết trong năm.
2. Dương lịch:
Cách đây 42 thế kỷ, người Ai Cập đã bắt đầu xây dựng dương lịch dựa vào thời gian chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời. Căn cứ vào bóng của Kim tự tháp, người Ai Cập đã tính được thời gian Trái Đất chuyển động xung quanh Mặt Trời là 365 ngày và lấy đơn vị thời gian này là năm, chia một năm ra 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày, lấy 10 ngày là 1 tuần lễ; còn lại 5 ngày thừa để làm lễ cuối năm.
Thời gian Trái Đất chuyển động trọn một vòng quanh Mặt Trời là 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây gọi là năm thật (năm thiên văn).
Việc dùng năm thật để làm lịch sẽ không thuận tiện cho việc tính lịch do có số lẻ giờ, phút, giây. Vì vậy người ta chỉ lấy số nguyên ngày là 365 ngày làm thời gian của một năm lịch. Nhưng như thế thì năm lịch ngắn hơn năm thật gần 1/4 ngày. Cứ 4 năm lại ngắn hơn 1 ngày, sau một số năm lịch sẽ càng sai nhiều hơn so với chu kỳ quay thật của Trái Đất.
Năm 45 tr.CN, Hoàng đế La Mã là Giun Xêda (Jules Cesar) cho sửa lại dương lịch cũ ở La Mã, quyết định cứ 4 năm thì thêm 1 ngày cho năm cuối để bù vào phần thiếu hụt đó, và gọi là Năm nhuận (366 ngày). Vì vậy, năm nhuận được quy định là năm mà con số của năm chia hết cho 4.
Hoàng đế Xêda quy định 1 năm có 12 tháng, tháng lẻ (1, 3, 5..., 11) có 31 ngày, tháng chẵn (2, 4, 6..., 12) có 30 ngày.
Như thế tính ra 1 năm có 366 ngày. Do đó cắt bớt 1 ngày của tháng 2 (là tháng ở La Mã các tội phạm bị phạt tử hình đều bị hành quyết - đó là tháng bất lợi nên người ta muốn tháng đó ngắn đi). Vì thế tháng 2 chỉ còn 29 ngày. Đó là lịch Giuliêng (Juliên).
Hoàng đế Ôgust (Auguste) kế nhiệm Xêda, sinh vào tháng 8 - là tháng chẵn, chỉ có 30 ngày. Để biểu thị sự tôn nghiêm giống như Xêda, Ôgust quyết định khấu đi một ngày của tháng 2 cho vào tháng 8 thành 31 ngày, do đó tháng 2 chỉ còn 28 ngày; đồng thời sửa các tháng 9 và 11 nguyên là tháng đủ thành tháng thiếu (30 ngày), tháng 10 và 12 nguyên là tháng thiếu thành tháng đủ (31 ngày). Những năm nhuận dương lịch thì tháng 2 có 29 ngày, các năm không nhuận thì tháng 2 có 28 ngày.
Tuy nhiên, cuộc cải cách lịch của Xêda vẫn chưa hoàn toàn đúng, vì năm thật lại ngắn hơn năm lịch là 11’14’’. Sau 384 năm, lịch lại chậm mất 3 ngày. Năm 325, hội nghị Kitô giáo họp ở Nixia (Nicia) quy định lại việc áp dụng lịch Giuliêng, với cách tính 1 tuần có 7 ngày tương ứng với 7 thiên thể (cách dùng tên Mặt Trời, Mặt Trăng và các hành tinh để gọi các ngày trong tuần), đồng thời hội nghị còn quyết định lấy ngày 21/3 hằng năm làm ngày lễ Phục sinh.
Đến thế kỷ XVI người ta phát hiện thấy vị trí của Mặt Trời trên hoàng đạo không còn tương ứng với ngày của năm lịch đã quy ước với ngày xây dựng thời dương lịch. Cụ thể vào năm 1582 khi Mặt Trời ở điểm Xuân phân đáng lẽ phải là 21/3 thì lịch mới là ngày 11/3, tức là chậm mất 10 ngày.
Để loại bỏ sự bất hợp lý này, giáo hoàng La Mã - Gơrêgoa III quyết định sửa lại lịch để cho ngày lễ Phục sinh đúng vào ngày 21/3 bằng cách cho lịch nhanh lên 10 ngày - đổi ngày 5/10/1582 thành ngày 15/10/1582 và từ đấy về sau, cứ 400 năm lại bớt đi 3 ngày nhuận. Quy luật nhuận dương lịch được bổ sung như sau: năm nhuận là năm mà con số của năm đó chia hết cho 4, riêng đối với những năm chứa số nguyên thế kỷ (năm chẵn trăm) thì phải chia hết cho 400.
Ví dụ: trong các năm cuối thế kỷ: 1700, 1800, 1900, 2000, 2100, 2200, 2300, 2400 thì các năm nhuận là 2000 và 2400, các năm không nhuận là 1700, 1800, 1900, 2100, 2200, 2300 (mặc dù các con số của năm đều chia hết cho 4).
Quy luật nhuận của dương lịch khiến độ dài bình quân năm dương lịch gần với độ dài của năm thật, phải qua mấy ngàn năm mới chênh nhau 1 ngày. Do đó dương lịch phản ánh rất chính xác quy luật của thời tiết, khí hậu. Ngoài ra, dương lịch lại đơn giản, chỉ dựa vào chu kỳ chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời. Vì thế dương lịch (lịch Gơrêgoa) là loại lịch thông dụng trên thế giới hiện nay chúng ta đang sử dụng.
“Do mâu thuẫn với Hoàng đế La Mã, nước Nga không dùng lịch Gơrêgoa như thế giới đang dùng. Năm 1917 khi cách mạng tháng 10  Nga nổ ra ngày 25/10/1917 theo lịch Nga (Giuliêng) nhưng lịch trên toàn thế giới là ngày 7/11/1917. Vì vậy kỷ niệm cách mạng tháng 10 Nga là ngày 7/11 hằng năm”. (Trích bài giảng của ThS Nguyễn Trọng Hiếu - Khoa Địa lý - ĐHSP Hà Nội, tháng 10/2001).
3. Âm - dương lịch:
Để khắc phục nhược điểm của âm lịch, cách đây khoảng 2600 năm, người Trung Quốc đã kết hợp cả hai vận động: vận động của Mặt Trăng quanh Trái Đất và vận động của Trái Đất quanh Mặt Trời để tạo ra lịch. Đó là âm - dương lịch.
Âm - dương lịch lấy thời gian biến đổi của 1 tuần trăng làm độ dài của tháng, bình quân là 29 ngày 12 giờ 44 phút. Tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu có 29 ngày. Một năm âm - dương lịch có 354 hoặc 355 ngày. Để độ dài năm âm - dương lịch gần thống nhất với độ dài năm dương lịch, người ta đặt ra quy luật nhuận: Năm nhuận có 13 tháng, cứ 19 năm có 7 năm nhuận (thập cửu niên thất nhuận). Đó chính là âm - dương lịch hiện nay Việt <st1:country-region w:st="on">Nam</st1:country-region> và Trung Quốc đang dùng. Theo quy luật nhuận này, giữa âm - dương lịch và dương lịch có sự trùng khớp kỳ diệu:
19 năm dương lịch = 365,2422 ngày/năm x 19 năm = 6939,60 ngày.
19 năm âm dương lịch = 19 năm x 12 tháng/năm + 7 tháng = 235 tháng;
29,53 ngày/tháng x 235 tháng = 6939,55 ngày.
Quy tắc tính năm nhuận (có 13 tháng) của âm - dương lịch như sau: Lấy năm dương lịch chia cho 19, nếu số dư là một trong các số sau thì đó là năm nhuận: 0, 3, 6, 9, 11, 14 và 17.
Ví dụ: Xét các năm: 2000, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007...
- Các năm nhuận là: 2001, 2004 và 2006.
- Các năm không nhuận là: 2000, 2002, 2003, 2005, 2007.
Vì âm - dương lịch được tính toán dựa vào chu kỳ vận động của Mặt Trăng để phân chia các tháng nên nó sai với chu kỳ chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời mỗi năm khoảng 10 ngày. Mặc dù cứ 3 năm đã có 1 tháng nhuận, nhưng có năm lịch vẫn sai với chu kỳ chuyển động của Trái Đất tới 20 ngày. Do đó các mùa của thời tiết không tuần hoàn như dương lịch.
Tuy vậy, hiện nay bên cạnh dương lịch, nước ta vẫn sử dụng âm - dương lịch (ta quen gọi là âm lịch) vì âm - dương lịch gắn liền với nhiều phong tục tập quán của nhân dân ta.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét